gái phải hơi trai như thài lài gặp
gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó, trai phải hơi gái như cò bợ gặp trời mưa : Con gái sau khi lấy chồng hoặc có quan hệ sinh lí với đàn ông sẽ tươi tắn xinh đẹp hơn, còn đàn ông thì bơ phờ, rũ rượi. Nguồn tham khảo: Đại Từ điển Tiếng Việt
Cô thành một cô gái biết chiều chuộng người yêu khiến đám bạn phải ngạc nhiên, tóc tai giờ thả dài điệu đàng, mắt môi lúc nào cũng long lanh, tươi rói, đúng là có tí hơi trai có khác, y như các cụ chúng họ bảo: "Gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó".. nghĩa là cứ phởn phơ hơn hớn.
Rõ khổ, tên chồng tên thế này. bác đổi lại hộ em cái, bài là Câu lạc bộ bóng đá Hà Nội nhưng thảo luận lại là Câu lạc bộ bóng đá trẻ Hà Nội. Jspeed1310 (thảo luận) 16:31, ngày 7 tháng 1 năm 2014 (UTC) Trả lời [trả lời]. Bỏ caution. Hi Thái Nhi, bạn xem lại và remove giúp mình 2 phần caution ở bên trên bài
Thí dụ như sau khi cùng Quách Tỉnh và Hoàng Dung luyện xong Hàng Long Chưởng với Cửu Âm Kinh, khán giả lại được dẫn dắt tới đoạn đầu của một thiên tình sử lâm ly bi đát khác dính dáng tới nhiều trai anh hùng, gái thuyền quyên khác như Trương Thúy Sơn, Hân Tố Tố
Gái phải hơi trai như thài lài. (Thethaoᴠanhoa.ᴠn) - Nguуên ᴠăn câu châm ngôn nàу là: "Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó/ Trai nên hơi gái như cò bợ gặp trời mưa". Đâу là 1 kinh nghiệm dân gian có liên quan tới dục tình nam nữ. Phái mạnh (đàn ông) ᴠà con gái (đàn bà) là 2 nhóm fan thuộc nam nữ khác nhau.
Trả lời. Hòn sỏi 15:29, 03/12/2013. Kìa em hò hẹn điều gì. Thề bồi sóng nước trách chi phập phồng. Hoa vừa nở đã phiêu bồng. Đem tình yêu gửi ở trong lá mềm. Hoa ngâu nở trắng bên thềm. Em cười răng trắng một miền yêu thương. Anh làm hòn sỏi ven đường.
Nếu như em hóa thài lài. Anh thành "phân" cún ta gài vào nhau. Bài thơ số 3: (Sưu tầm) Anh muốn vì em. Anh muốn làm điều gì đó cho em. Làm nhiều hơn những gì anh có thể. Anh biết con người anh nhỏ bé. Nhưng tình này sẽ mãi chẳng đổi thay. Anh muốn làm gì đó hôm nay
Những không gian thu hẹp. Những thời gian hối hả. Những cơn bão lửa vội vàng. Ta gặp nhau như ngày mai sắp tận thế, liều thân trong những phút thiên thu. Như có mà như không. Như thật mà như ảo. Nửa ta — nửa tha nhân. Xa lạ và yêu dấu. Ta chẳng cần nói những lời phải nói.
freeftendegarb1987. - Nguyên văn câu tục ngữ này là “Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó/ Trai phải hơi gái như cò bợ gặp trời mưa”. Đây là một kinh nghiệm dân gian có liên quan tới quan hệ nam nữ. Nam đàn ông và nữ đàn bà là 2 nhóm người thuộc giới tính khác nhau. Về mặt gia đình, họ kết hôn với nhau thành một cặp vợ chồng. Về mặt sinh lý học, họ kết hợp với nhau làm nên một cặp sinh sản. Theo lẽ thường của tạo hóa, đây là điều kiện cơ bản để duy trì nòi giống con người theo nguyên lí sinh sản hữu tính có sự tham gia của tế bào sinh dục đực và cái. Chữ và nghĩa 'Vỏ' và 'da' trong tiếng Việt Khi nói tới “da cam” hay “màu da cam”, chắc mọi người Việt Nam chúng ta sẽ liên tưởng ngay tới tổ hợp từ “chất độc da cam” trước đây thường gọi là “chất độc màu da cam”. Kết giao giữa nam và nữ đã thành câu chuyện của muôn thuở. Thiết tưởng không cần phải hà tất nhiều lời. Cái đáng nói ở câu tục ngữ này là cách ví von của dân gian về "hệ quả" của sự tiếp xúc bình thường đó. Câu này, được Nguyễn Đức Dương trong Từ điển Tục ngữ Việt, NXB Tổng hợp 2010 thống kê là "Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó/ Trai phải hơi vợ như cò bợ mắc mưa" và được giải thích "Con gái bén được hơi trai thì da dẻ đều phổng phao hẳn lên, tựa như thài lài gặp được phân chó; chồng bén phải hơi vợ thì đa phần đều bết bát hẳn đi, tựa như lũ cò bợ bị mắc mưa." Còn Việt Chương trong Từ điển Thành ngữ, Tục ngữ, Ca dao Việt Nam, quyển Thượng, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2003 lại thống kê là "Gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó/; Trai phải hơi vợ như cò bợ phải trời mưa" và giải thích "Gái mới lấy chồng tự nhiên trở nên tươi tắn, lanh lợi và yêu đời. Cũng như cây rau thài lài được "bón" bằng phân chó nên tươi tốt lạ thường. Loại cây thài lài chỉ thích hợp với phân chó. Còn con trai mà mới lấy vợ thì trông thảm hại làm sao! Cả ngày cứ rụt cổ so vai như con cò bợ, như đau ốm lâu ngày chưa dứt. Đó là do phung phí sinh lực quá độ nên mới "rạc" người ra như vậy”. [thài lài cây thân cỏ, thường mọc hoang ở những nơi đất ẩm, lá hình trái xoan nhọn, hoa màu xanh lam; cò bợ cò có cổ và ngực màu nâu thẫm, thường có dáng ủ rũ.] Cả Nguyễn Đức Dương và Việt Chương đều có ý cho rằng, câu tục ngữ này nói về biểu hiện của nam và nữ trong mối quan hệ vợ chồng. Thực ra, căn cứ vào ngôn ngữ tường minh thì dân gian đơn thuần chỉ nói về hệ quả tiếp xúc giữa "gái" nữ, đàn bà và "trai" nam, đàn ông khi họ lần đầu đến với nhau trong đó dĩ nhiên có trường hợp vợ chồng mới kết hôn. Dân gian dùng câu này để nói về hệ quả tiếp xúc giữa "gái" nữ, đàn bà và "trai" nam, đàn ông khi họ lần đầu đến với nhau Chắc người đọc cũng nhận ra, 2 vế đem ra so sánh quả là rất lạ, rất độc đáo một so sánh với "thài lại gặp cứt chó", một so sánh với "cò bợ gặp trời mưa". Thài lài mọc dại xó vườn bỗng nhiên có một bãi cứt chó ngẫu nhiên rơi bên cạnh, khác nào tiếp thêm sức lực, nhanh chóng phát triển tốt tươi trông thấy. Còn cò bợ vốn dĩ đã có bộ dạng ủ rũ, buồn rầu mà gặp trận mưa to thì lông ướt bết bát, đã thiểu não lại thiểu não hơn. Chính từ sự ví von này đã làm nên nghĩa khái quát của câu tục ngữ nói về biểu hiện ngoại hình trái ngược Gái "gặp" trai sẽ tươi tỉnh, mỡ màng, tốt đẹp. Trai "gặp" gái sẽ trở nên yếu ớt, mất nhuệ khí. Nghĩ mà tội cho "cánh đàn ông" quá đỗi mà lại bị đem ví với “thài lài gặp cứt chó”, thật là bỉ mặt cánh mày râu. Nhưng đó là một thực tế cuộc sống mà mọi người nhất là những ai đã trải nghiệm, dù ít dù nhiều, đều thừa nhận là đúng. Vấn đề cần bàn ở đây là tổ hợp "phải hơi trai, gái" ở đây muốn nói về cái gì? "Phải hơi" theo Nguyễn Đức Dương là "bén được hơi trai", "bén phải hơi vợ". Còn theo Việt Chương, cụ thể hơn, từ này chỉ "gái mới lấy chồng" và "trai mới lấy vợ". "Phải hơi" hay "bén hơi" đều rất mơ hồ, chưa rõ nghĩa. Nó có thể là "con gái tuổi dậy thì, bước vào tuổi yêu đương, có sự tiếp xúc với trai dù chỉ là về mặt cảm xúc yêu đương" hoặc "sau khi lấy chồng" Hoàng Tuấn Công, Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân Phê bình và khảo cứu, NXB Hội Nhà văn, 2018. Liệu trai gái chỉ tiếp xúc bình thường, có cảm xúc mến nhau, cảm tình với nhau, thậm chí "yêu nhau bằng mắt" đã dẫn đến những kết quả như câu tục ngữ khái quát chưa? Có lẽ, phải có sự tiếp xúc trực tiếp, tức là có quan hệ yêu đương tính giao như vợ chồng thì mới dẫn đến thay đổi tâm lý, nhất là sinh lý. Bởi khi quan hệ tình dục, người phụ nữ sẽ sinh ra các nội tiết tố kích thích sự phát triển tích cực của cơ thể, còn người đàn ông lại bị hao tổn tinh khí, sức lực làm cho thể trạng của họ tạm thời suy giảm. “Phải hơi”, “phải gió” hay “phải lòng” là theo cấu trúc “phải + X”. “Phải lòng” có nghĩa là “cảm thấy yêu một cách khó cưỡng lại nổi [nói về tình yêu nam nữ]”. “Phải hơi” còn mạnh hơn. Ở đây là sự “bén hơi” thực sự, mạnh mẽ tới mức diễn ra sự thay đổi về chất khi có sự tiếp xúc thân thể 2 giới nam và nữ, nhất là cả 2 đã đến độ trưởng thành. PGS-TS PHẠM VĂN TÌNH
Hoàng Tuấn Công ○ “gái giết chồng, đàn ông ai giết vợ Lời nhận định thiên về đàn ông và có ác ý với phụ nữ”. Dân gian đâu có đặt ra câu tục ngữ này với mục đích “nhận định thiên về đàn ông và có ác ý với phụ nữ”?. Thực tế trong nhiều vụ án giết chồng cho thấy đàn bà ngoại tình thường lập mưu giết chồng để được sống tự do với kẻ gian phu; trong khi đàn ông, theo chế độ “đa thê”, lại có tâm lý thích “năm thê bảy thiếp”, nên thường không nảy sinh ý định giết vợ để sống với người tình. Tham khảo Luật thời Nguyễn Gia Long quy định “Tội thông gian và giết chồng, vợ cả”, tại điều 254 “phàm thê thiếp nhân vì việc thông gian mà đồng mưu với gian phu trong việc giết chết chồng của mình thì bị xử tội lăng trì, gian phu thì bị xử trảm giam hậu.” “Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn”-TS Huỳnh Công Bá-NXB Thuận Hoá. Không thấy luật nói đến trường hợp chồng vì gian dâm với người phụ nữ khác mà giết vợ mình. Điều này không có nghĩa, luật pháp thiên vị, bỏ qua tội trạng của đàn ông, mà chứng tỏ, chuyện đàn ông giết vợ để được sống với người tình, hầu như không xảy ra trong thực tế, nên nhà làm luật đã không có mục quy định về tội này. Từ điển Vũ Dung giải nghĩa cơ bản là đúng “Gái giết chồng, đàn ông ai giết vợ – Phản ánh một thực trạng xã hội thời phong kiến đàn ông được quyền bỏ hoặc lấy nhiều vợ, ngược lại người đàn bà phải chịu nhiều ràng buột khắt khe, muốn tự giải phóng khỏi người chồng không phù hợp, họ thường phải có những hành động tội ác”. ○ “gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó Thài lài là một thứ cây trồng làm cảnh Ý nói Gần người đàn ông, người đàn bà xinh đẹp hơn lên”. Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đều giảng không chính xác. Thài lài là cây mọc hoang, chứ không phải “thứ cây trồng làm cảnh”. Vì mọc hoang nơi bờ bụi, “đất chó ỉa”, nên thài lài mới “gặp cứt chó”. Cũng bởi là cây hoang dại, lại ưa cứt chó, nên quan niệm dân gian xem thài lài là loài cây thấp kém “Thài lài mọc cạnh bờ sông, Tuy rằng xanh tốt nhưng tông thài lài” ca dao. Giả sử có ai trồng thài lài “làm cảnh”, hẳn cũng không đem “cứt chó” bón cho “cây cảnh” bao giờ. Nguyên câu tục ngữ đầy đủ là Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó, Trai phải hơi gái như cò bợ gặp trời mưa. Phân chó chứa nhiều chất đạm, rất phù hợp với loại cây phát triển thân lá như thài lài nhà nông thường thu gom phân chó để chăm bón cây thuốc lào rất tốt. Thế nên, bình thường, thài lài trông héo hon, chỉ cần một trận mưa nhỏ, “cứt chó” ở bờ cỏ hoang ngấm vào đất, là thài lài tốt bốc lên ngay. Giống như con gái tuổi dậy thì, bước vào tuổi yêu đương, có sự tiếp xúc với trai dù chỉ là về mặt cảm xúc yêu đương, hoặc sau khi lấy chồng, thì lập tức phổng phao trông thấy; Đàn bà con gái được “gần gũi” chồng sau khoảng thời gian xa cách thì khí sắc bỗng tươi tỉnh, mỡ màng, xinh đẹp hẳn lên. Còn “trai phải hơi gái” theo dân gian bị hao tổn tinh khí nên trông như “cò bợ phải trời mưa”. Cách ví von của dân gian vừa sát đúng về nghĩa đen, vừa mang tính hài hước về chuyện yêu đương, chăn gối. Tham khảo Từ điển bách khoa nông nghiệp “Thài lài commelina sp cây thân cỏ mềm, họ Thài lài commelinaceae, phần dưới bò lan, phần trên đứng, bén rễ ở các mấu. Hoa màu xanh lam. Quả nang dẹt. … Phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc châu Á. Ở Việt Nam, thài lài mọc ở các nơi ẩm mát, bờ vườn, bờ ruộng, khe suối, thành từng đám. Thài lài được coi như một loại rau xanh cho trâu, bò, lợn”. ○ “già lừa nhỡ lứa Giễu những phụ nữ quá tuổi không lấy được chồng”. Để tránh bạn đọc hiểu lầm, vì “già lừa” [“lừa” người ta nhiều] nên mới ế [“quá tuổi không lấy được chồng”], trường hợp này nên chú giải từ “lừa” để bạn đọc hiểu rõ “Già lừa” chính là “già LỰA” lựa chọn quá kỹ, quá khắt khe, tương tự “già kén”. Mặt khác, tục ngữ không “giễu những người phụ nữ quá tuổi không lấy được chồng”, mà đưa ra kinh nghiệm, lời khuyên kén chọn kỹ quá “già lựa” cuối cùng sẽ hoặc có thể dẫn đến quá lứa, lỡ thì; Không nên kén chọn, đưa ra tiêu chuẩn quá cao mà thành lỡ làng, ế ẩm. Ví dụ, bà cụ nhắc nhở đứa cháu gái đang tuổi kén chồng Già lựa thì lỡ lứa đấy cháu ạ. Đồng nghĩa với câu Già kén kẹn hom [Ca dao “Thôi đừng tính thiệt so hơn, Kẻo ra già kén kẹn hom lỡ làng]. ○ “giàu bán chó, khó bán con Nói lên sự bất công tệ hại của xã hội cũ”. Chính xác phải là Giàu bán LỌ lúa, không phải “giàu bán CHÓ”. Nghĩa là với người giàu có, sung túc, nhiều lương thực thì có lúa bán đi để chi tiêu; nhà nghèo khó, bát ăn chẳng đủ, túng quẫn thì chỉ còn mỗi cách bán đi những đứa con của mình, để bớt gánh nặng khó khăn. [Dị bản Giàu bán ló, khó bán con. “Ló” tiếng Việt cổ có nghĩa là “lúa”]. Tục ngữ Mường “Giàu bán lúa, khó bán con – Giấu biành ló, khò biành con”. ○ “giàu thú quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ Kẻ Chợ là từ cũ chỉ Hà Nội Đây là tư tưởng lệch lạc của một số người coi đời sống ở thành thị hơn ở nông thôn”. Công việc của người biên soạn từ điển là giải thích tại sao thành ngữ, tục ngữ lại nói như vậy, chứ không phải đứng trên quan điểm cá nhân để phê phán, bắt bẻ dân gian. Câu tục ngữ trên phản ánh một quan điểm, một cách nhìn nhận ở quê được tiếng giàu có, sung túc là vậy, nhưng là kiểu giàu có của anh nông dân, tài sản chỉ là chum khoai, bồ lúa, trong khi vẫn phải chân lấm tay bùn; còn ở thành thị, tuy buôn thúng bán mẹt “ngồi lê kẻ chợ” thôi, nhưng thu nhập cao, tiền bạc vẫn nhiều hơn và cuộc sống phong lưu hơn. Tục ngữ Tày “Người chăm chỉ ở trong làng quê không bằng kẻ lười biếng ở thành thị” – Vỏ xẳc giú chang bản bố tấng vỏ dạn chang chu”. Cuối cùng, từ “kẻ chợ” cũng chỉ chung nơi đô thị, đô hội, chứ không chỉ riêng Hà Nội cụ thể là “kẻ chợ” trong câu tục ngữ đang xét. Tham khảo Từ điển Vietlex “kẻ chợ • d. [cũ] nơi đô thị [thường dùng để chỉ kinh đô cũ] dân kẻ chợ ~ ăn nói theo kiểu kẻ chợ”; Từ điển Lê Văn Đức “ kẻ chợ • dt. Chợ, thị-thành, nơi đô-hội Nghĩ em đáng lạng vàng mười, Đem ra kẻ chợ kém người trăm phân CD”; Từ điển Đào Văn Tập “kẻ chợ • xưa Chỗ thành-thị đô-hội dạo cùng kẻ chợ thì quê”; Việt Nam tự điển “kẻ-chợ • Chỗ đô-hội Kẻ-chợ, nhà-quê”. Từ điển Thanh Nghị “kẻ-chợ • dt. Thị-thành Người kẻ-chợ.”; Từ điển Văn Tân “kẻ chợ • d. 1 Kinh đô. 2 Nơi thành thị Người kẻ chợ”. Chính Paul Dumer đã ghi nhận trong Xứ Đông Dương như sau “Các văn bản viết của thế kỷ XVII cho thấy Hà Nội đã từng có tên là Kẻ Chợ phát âm là Ké-Cheu, là cái mà hiện giờ ta thấy ở khắp nơi trên đất nước này và có nghĩa là “chợ lớn”. ○ “giày thừa, dép thiếu Ý nói giày to quá mà dép lại bé quá”. “Ý nói” là vậy, nhưng nghĩa của nó là thế nào? Không lẽ bỗng dưng tục ngữ lại nói “giày to quá mà dép lại bé quá”? Đây là một kinh nghiệm thử giày dép giày thì nên rộng, dài “thừa” ra một chút so với cỡ chân để khi đi không bị “kích”, đau ngón chân [Có câu Đẽo gót cho vừa giày, ý nói phải chọn để có đôi giày vừa chân, chứ không thể làm ngược đời là đẽo bớt gót chân cho vừa với đôi giày mình đi]. Ngược lại, với dép không nên chọn đôi quá rộng, mà phải hơi chật “thiếu” một chút so với bề dài của bàn chân, khi đi sẽ không bị quét lê gót, hoặc thọc đầu ngón chân ra đằng trước, dễ vấp ngã dép rộng quá thì đi sẽ không vững chân. Thế nên Tục ngữ Hán cũng đưa ra lời khuyên “Y bất đại thốn, hài bất tranh ty – 衣不大寸, 鞋不爭絲 – Quần áo không rộng hơn một tấc, giày không được chật hơn”. ○ “gieo gió gặt bão dịch một tục ngữ Pháp Ý nói Tự mình gây điều ác thì phải chịu kết quả của điều ác ấy”. Không có căn cứ nào để nói rằng, “Gieo gió gặt bão” là “dịch một tục ngữ Pháp”. Nếu có giống với tục ngữ Pháp cũng nên cẩn trọng xem xét, bởi trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân loại, nhiều câu có nghĩa đen và nghĩa bóng giống nhau, nhưng chưa hẳn là vay mượn trực tiếp của nhau. Đây là một câu tục ngữ về luật nhân quả rất phổ biến, với nhiều dị bản đồng nghĩa Gieo gì gặt nấy; Cấy gió, chịu bão; Cấy gió, gặt bão; Gieo vạ nhỏ rước vạ lớn… ○ “giết một con cò, cứu muôn con tép Ý nói Trừ một kẻ tàn ác là cứu được nhiều người”. ○ “giết một con mèo, cứu vạn con chuột Như nghĩa câu trên Nhưng câu này vô lý, vì mèo giết chuột là có ích cho người”. Vì không hiểu ý tứ sâu xa của tục ngữ, đến câu thứ hai, GS Nguyễn Lân đưa ra thắc mắc, cho rằng dân gian nói “vô lý”. Nhưng nếu nói “lý” thì bản đồng nghĩa “Giết một con cò, cứu muôn con tép” cũng “vô lý” không kém. Bởi con cò là vật hiền lành, được ví với hình ảnh người nông dân vất vả, “lặn lội thân cò”, tại sao chỉ vì “tội” bắt tép làm mồi mà giết hại nó? Mà “cứu muôn con tép” để làm gì? “Giết một con cò, cứu muôn con tép” hay “Giết một con mèo, cứu vạn con chuột” [Tục ngữ Hán Sát nhất miêu, cứu vạn thử – 殺一貓救萬鼠 – Giết một con mèo cứu vạn con chuột] có nghĩa bóng là trừ khử được một tên đầu sỏ, ác ôn, chuyên gieo rắc cái chết, thì sẽ cứu được nhiều mạng người. Ví dụ giết một tên bạo chúa, lật đổ một hôn quân thì sẽ cứu được muôn dân. Cũng cần xem xét về nguồn gốc câu tục ngữ. Rất có thể, câu này xuất phát từ quan điểm của đạo Phật, coi chúng sinh bình đẳng, sinh mệnh của mèo hay chuột cũng đều như nhau. Theo đó, đạo Phật kiêng sát sinh giới sát nhưng trường hợp cần thiết cũng được phép sát sinh “Sát nhất nhân, cứu vạn nhân”. “Cò” và “mèo” ở đây mang nghĩa đen là nếu sống cả một đời, chúng “giết” rất nhiều “con tép”, nhiều “con chuột”. Chuyện mèo giết chuột có ích thế nào, lại là chuyện khác, bàn ở chỗ khác. ○ “giữ tiếng chẳng tày giữ miếng Ý nói sợ người chê không bằng cảnh giác đối với địch”. Ở đây không nói đến chuyện “cảnh giác”, “địch” với ta. Trong đời sống, đôi khi người ta vì thể diện, tránh mang tiếng xấu tranh giành quyền lợi vật chất, miếng ăn miếng uống mà đành im lặng chịu thua thiệt trước kẻ khác. Nghĩa bóng Giữ hư danh, thể diện hão chẳng bằng bảo vệ quyền lợi thực tế của mình; Không nên giữ thể diện hão, thích cái hư danh, mà đánh mất quyền lợi thực tế của mình. Đây là một quan điểm sống, một thái độ ứng xử. ○ “ít bột không nặn nhiều bánh Ý nói Phải đầu tư nhiều mới đạt kết quả tốt”. Không đúng. Tục ngữ không nói ít bột thì không nặn được nhiều bánh nên “phải đầu tư nhiều”, mà là ít bột thì không nên nặn nhiều bánh. Nghĩa là có ít thì không nên bày vẽ, “bôi ra” nhiều thứ, kẻo cuối cùng chẳng đâu vào đâu, kết quả không ra gì. Thế nên, Từ điển của Vũ Dung mới giải thích “ít bột không nặn nhiều bánh. Khả năng ít đừng bày ra nhiều”. [sai giống Từ ngữ Hán Việt]. Comments are closed.
Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó Trai phải hơi gái, thì mặt tái râu phờ Dị bản Gái gặp hơi trai như khoai gặp hơi cuốc Trai gặp hơi gái đứt ruột còng lưng Cùng thể loại Bài thơ thuốc lào Người Việt Nam phải lấy thuốc lào làm quốc tuý Còn thú vị nào hơn thú vị yên vân! Từ vua, quan, đến hạng bình dân, Ai là chẳng bạn thân với điếu Từ ông thừa, trở lên cụ thiếu, Đi ngoài đường, phi điếu bất thành quan. Ngồi công đường, vin xe trúc nghênh ngang, Hút mồi thuốc, óc nhà quan thêm sáng suốt. Nhà thi sĩ gọt câu văn cho chuốt, Tất phải nhờ điếu thuốc gọi hồn thơ. Lại những khi óc mỏi, mắt mờ, Nhờ điếu thuốc mới có cơ tỉnh tớm Dân thuyền thợ thức khuya, dậy sớm, Phải cần dùng điếu đóm làm vui. Khi nhọc nhằn lau trán đẫm mồ hôi, Vớ lấy điếu, kéo một hơi thời cũng khoái. Dân cày cấy mưa dầm, nắng dãi, Bạn tâm giao với cái điếu cày. Lúc nghỉ ngơi, ngồi dưới bóng cây, Rít mồi thuốc, say ngây say ngất. Rồi ngả lưng trên đám cỏ tươi xanh ngắt, Dễ thiu thiu một giấc êm đềm. Bạn nhà binh canh gác thâu đêm, Nhờ điếu thuốc mới khỏi lim dim ngủ gật. Nội các thức say sưa nghiện ngập, Ngẫm mà coi, thú nhất thuốc lào. Nghiện thuốc lào là cái nghiện thanh tao, Chẳng hại tiền của, mà chẳng hao sĩ diện. Chốn phòng khách, anh em khi hội kiến, Có thuốc lào câu chuyện mới thêm duyên. Khi lòng ta tư lự không yên, Hút mồi thuốc cũng giải phiền đôi chút. Nghe tiếng điếu kêu giòn, nhìn khói bay nghi ngút, Nỗi lo buồn theo khói vút thăng thiên. Cái điếu cùng ta là bạn chí hiền, Từ thiên cổ tơ duyên chặt kết. Cũng có kẻ muốn dứt tình khăng khít, Vùi điếu đi cho hết đa mang. Nhưng nỗi nhớ nhung bứt rứt tấm gan vàng, Chút nghĩa cũ lại đa mang chi tận tuỵ. Cho nên bảo điếu thuốc lào là quốc tuý, Thật là lời chí lý không ngoa. Thuốc lào, ta hút điếu ta, Điếu ta thọ với sơn hà muôn năm… Dù anh văn hoá lớp mười Dù anh văn hoá lớp mười Anh chưa ra trận, em thời không yêu Dù anh sắc sảo, mỹ miều Nếu không ra trận, không yêu làm chồng Dị bản Dù em nhan sắc tuyệt vời Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu Dù em duyên dáng, mỹ miều Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào Thủ đô xa tự năm nào Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên Nay mai chiến thắng trăm miền Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về. Thái Bình có chú Phạm Tuân Thái Bình có chú Phạm Tuân Bay vào vũ trụ một tuần về ngay Dị bản Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Bay vào vũ trũ một tuần về ngay Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò con gái Học trò đi mò con gái Thầy ở nhà xách dái chạy theo Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò cá sặc Học trò đi mò cá sặc Thầy ở nhà cắt cặc nấu chua Học trò đi vùa bánh cúng Học trò đi vùa bánh cúng Thầy ở nhà xách thúng chạy theo Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Mã tà có chú hay quơ hay quào Giận ai gươm chúng phao vào Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi Một đêm chẳng biết mấy chồng Một đêm chẳng biết mấy chồng Chà Và, Ma Ní cũng đồng “lội” qua Ngày thì hớn hở vào ra Ai xa xem thấy chị Ba ngoắt vào Cu cờm cu ngói cu xanh Cu cờm cu ngói cu xanh Cồ cồ xiêm, cồ cồ ta Ba nanh chuối sứ, ba nanh chuối già Có cùng từ khóa Gái khôn trai dỗ, lâu buồn cũng xiêu Gái khôn trai dỗ, lâu buồn cũng xiêu Xấu dây tốt củ Xấu dây tốt củ Dị bản Xấu dây mẩy củ Trai tơ Tuân Lộ, gái tơ Thanh Bào Trai tơ Tuân Lộ, gái tơ Thanh Bào Tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm Tối ăn khoai đi ngủ, Sáng ăn củ đi làm Dị bản Tối ăn khoai đi ngủ, Sáng ăn củ đi làm, Trưa về ăn khoai lang uống nước Trai bất tài chưa làm đã hỏi Trai bất tài chưa làm đã hỏi Gái vô duyên chưa nói đã cười Trai chưa vợ hay đứng đường Trai chưa vợ hay đứng đường Gái chưa chồng giương mắt xem ai Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ Gái nào mũm mĩm bằng gái Hà Tiên Ra ngõ gặp trai vừa may vừa mắn Ra ngõ gặp trai vừa may vừa mắn Ra ngõ gặp gái mọi cái không may Tiếng đồn con gái Nam Diêu Tiếng đồn con gái Nam Diêu Làm giỏi hát giỏi, mĩ miều nước da Tiếng đồn con trai Thanh Hà Nói năng lịch thiệp như là văn nho Năm ngoái em trồng khoai lang có dây không củ Năm ngoái em trồng khoai lang có dây không củ, Năm nay em trồng khoai lũ có củ quên đào, Em gặp anh đây quên hỏi, quên chào, Anh có thương đừng trách, trách thời đừng thương. Thài lài Cây thân cỏ, thường mọc hoang ở những nơi đất ẩm, lá hình trái xoan nhọn, hoa màu xanh lam hay tím. Được dùng làm thuốc chữa viêm họng, viêm thận, phù thũng, phong thấp, viêm khớp, rắn cắn... Cây và hoa thài lài trắng Thuốc lào Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo cỏ nhớ thương, vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào cũng gọi là ăn thuốc lào cần có công cụ riêng gọi là điếu. Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào. Hút thuốc lào bằng ống điếu Quốc túy Cái đặc sắc về tinh thần hoặc vật chất của một dân tộc. Yên vân Khói yên mây vân. Thừa Một chức vụ nhỏ trong các nha phủ dưới thời phong kiến. Phi điếu bất thành quan Không có điếu cày không thể thành quan. Đa mang Tự vương vấn vào nhiều tình cảm để rồi phải đeo đuổi, vấn vương, dằn vặt không dứt ra được. Thôi em chả dám đa mang nữa Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng Xuân tha hương - Nguyễn Bính Sơn hà Núi sông từ Hán Việt. Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước. Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Lý Thường Kiệt Dịch thơ Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Hệ giáo dục phổ thông miền Bắc từ năm 1956 đến năm 1985 chia làm ba cấp cấp I bốn năm, cấp II và cấp III mỗi cấp ba năm, tổng cộng là mười năm. Giôn-xơn Lyndon Baines Johnson, tổng thống thứ 36 của Mỹ, nắm giữ hai nhiệm kì từ năm 1963 đến năm 1969. Ông này chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà tiêu biểu là việc triển khai quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Tổng thống Mỹ Johnson Trường Sơn, Lào, Thủ Đô, Tam Đảo, Điện Biên đều là tên của các nhãn hoặc loại thuốc lá phổ biến ở miền Bắc vào những năm 1960-1970. Thuốc lá Điện Biên Thái Bình Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa. Bãi biển Đồng Châu Cá sặc Một loại cá đồng, có rất nhiều ở vùng Tây Nam Bộ vào mùa nước nổi. Người dân Nam Bộ thường đánh bắt cá sặc để làm khô cá, mắm sặc, hoặc nấu thành nhiều món ăn ngon như gỏi, cháo, canh chua bông súng... Khô cá sặc Vùa Gom góp hết về phía mình. Từ này ở miền Trung và miền Nam được phát âm thành dùa. Mã tà Lính cảnh sát thời thuộc địa. Nguồn gốc của từ này đến nay vẫn chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ tiếng Mã Lai là mata-mata, có nghĩa là "cảnh sát," lại có người cho rằng xuất xứ từ này là matraque, tiếng Pháp nghĩa là cái dùi cui. Chà Và Việt hóa từ âm chữ Java, chỉ đảo Java ở Indonesia. Nhưng do từ xưa, người Việt chưa phân biệt rõ về địa lý và nhân chủng của khu vực biển đảo phía nam nên dùng từ "người Chà Và" để gọi chung những người có nguồn gốc từ Ấn Độ, Malaysia, Indonesia di cư đến Việt Nam. Ma Ní Còn gọi Ma Ni, tức người từ Manille thủ đô Philippines, xưa ta gọi là Phi Luật Tân, Lữ Tống, trước làm lính thuộc địa của Tây Ban Nha, được Pháp thuê trong thời kì đô hộ nước ta. Theo bài Tính chất phản kháng trong thơ văn bình dân Nam-kỳ thời Pháp thuộc của Long Điền "Cồ cồ" tức coco là trái dừa, "ba nanh" tức banane là trái chuối. Quần chúng đã kết hợp tài tình hai thứ tiếng để chế giễu bọn bồi bếp, bọn ăn học chẳng ra gì nhưng lại được thực dân trọng dụng. Tuân Lộ Tên Nôm là Kẻ Dùa hay Dùa nay quen gọi là Rùa, một làng nay thuộc xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Làng nổi tiếng với món đậu phụ gọi là đậu Rùa. Đình Tuân Lộ Thanh Bào Tên một thôn nay thuộc xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Long Mỹ Địa danh nay là một huyện của tỉnh Hậu Giang, nằm hoàn toàn trong khoảng giữa vùng Tây sông Hậu, địa hình thấp và bằng phẳng, hệ thống kênh rạch chằng chịt. Thị xã Long Mỹ Hà Tiên Địa danh nay là thị xã phía tây bắc tỉnh Kiên Giang, giáp với Campuchia. Tên gọi Hà Tiên bắt nguồn từ Tà Ten, cách người Khmer gọi tên con sông chảy ngang vùng đất này. Hà Tiên về đêm Nam Diêu Tên một làng thuộc phường Thanh Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Làng được coi là tổ địa của nghề gốm Thanh Hà và cũng là làng duy nhất còn lại tiếp tục làm gốm cho đến ngày nay. Lễ cúng tổ nghề gốm ở Nam Diêu Thanh Hà Tên một ngôi làng ở Quảng Nam, nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây. Làng có nghề làm gốm truyền thống từ đầu thế kỉ 16. Gốm Thanh Hà Nhà nho Tên gọi chung của những người trí thức theo Nho giáo ngày xưa.
Tra cứu Từ điển Tiếng Việt - từ thài lài thài lài dt. thực Tên một giống cỏ Gái phải hơi trai, như thài-lài phải cứt chó. . Nguồn tham khảo Từ điển - Lê Văn Đức thài lài - Loài cây nhỏ, lá đôi, có khi có đốm màu, thường trồng để làm Nói dáng hai chân nằm giạng ra Nằm thài lài. Nguồn tham khảo Từ điển mở - Hồ Ngọc Đức thài lài dt. Cây thân cỏ lá hình xoan nhọn, hoa màu xanh lam, thường mọc hoang ở những nơi ẩm ướt Gái gặp hơi trai như thài lài gặp cứt chó tng. thài lài tt. 1. Cách ngồi, nằm giạng hai chân rộng ra nằm thài lài. 2. Dài ngoẵng, thõng thượt dây nhợ thài lài. 3. Bãi, dốc thoai thoải bãi biển thài lài. Nguồn tham khảo Đại Từ điển Tiếng Việt thài lài dt thực Loài cây nhỏ, lá đôi, có đốm màu, thường dùng để làm cảnh Thài lài mọc cạnh bờ sông, Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài lài cd. Nguồn tham khảo Từ điển - Nguyễn Lân thài lài dt th. Tên một thứ rau Thài-lài mọc cạnh bờ sông, Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài-lài C. d. Nguồn tham khảo Từ điển - Thanh Nghị thài lài Tên một thứ cỏ. Văn-liệu Thài-lài mọc cạnh bờ sông, Tuy rằng xanh tốt vẫn tông thài-lài C-d. Thài-lài, rau rệu, nghé-ngo, Mẹ con nhà khó ăn no lại nằm. Gái phải hơi trai như thài-lài phải cứt chó T-ng. Nguồn tham chiếu Từ điển - Khai Trí * Tham khảo ngữ cảnhĐược một quãng , đến bụi thài lài kín đáo , chúng tôi đứng lại. * Từ đang tra cứu Ý nghĩa của từ, giải nghĩa từ thài lài Vài nét về chữ Nôm, nguồn gốc và sự phát triển Truyện Kiều Ngẫm hay muôn sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân Khái lược Về Văn học Chữ Nôm Ở Việt Nam Cấu tạo và nguồn gốc của chữ Nôm – chữ của dân tộc Việt Nam Sấm Trạng Trình ký bản chữ Nôm
gái phải hơi trai như thài lài phải cứt chó, trai phải hơi gái như cò bợ gặp trời mưa Con gái sau khi lấy chồng hoặc có quan hệ sinh lí với đàn ông sẽ tươi tắn xinh đẹp hơn, còn đàn ông thì bơ phờ, rũ rượi.